Chuỗi video tự học spss hoàn toàn miễn phí


Chuỗi video tự học spss hoàn toàn miễn phí
» » » Luận văn chuyển giao công nghệ ở Việt Nam


MỤC LỤC

MỤC LỤC i
LỜI MỞ ĐẦU iv
NỘI DUNG 1
I. CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ 1
1. Những hiểu biết về công nghệ 1
1.1. Định nghĩa Công nghệ 1
1.2. Các bộ phận cấu thành một công nghệ 2
1.3. Thuộc tính của công nghệ 5
1.4. Phân loại công nghệ: 7
1.4.1. Theo số lần chuyển giao công nghệ 7
1.4.2. Theo hình thức biểu hiện của công nghệ 8
1.4.3. Theo mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ 8
1.4.4. Theo ngành 8
1.4.5. Theo mức độ khuyến khích của nhà nước 8
2. Vấn đề chuyển giao công nghệ quốc tế 9
2.1. Khái niệm về chuyển giao công nghệ (CGCN) 9
2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ quốc tế 9
2.2.1. Phân loại theo mức độ khống chế của bên CGCN 9
2.2.2. Phân loại theo chiều sâu công nghệ chuyển giao 10
2.2.3. Phân loại theo hình thái công nghệ được chuyển giao 11
2.2.4. Phân loại theo hình thức chuyển giao công nghệ 12
2.2.5. Phân loại theo cách thức (phương thức) CGCN 12
3. Hợp đồng chuyển giao công nghệ: 13
3.1.1. Khái niệm 13
3.1.2. Đặc điểm 13
3.1.3. Đối tượng 13
3.1.4. Nội dung chủ yếu 14
II. KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA 16
1. Malaysia 16
1.1. Thực trạng 16
1.2. Giải pháp nhằm tăng năng lực công nghệ 17
1.3. Bài học kinh nghiệm 18
2. Hàn Quốc 19
2.1. Thực trạng 19
2.2. Giải pháp 19
2.3. Bài học kinh nghiệm 20
III. THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI Ở VIỆT NAM 22
1. Thực trạng đầu tư FDI vào Việt Nam 22
1.1. Thực trạng đầu tư FDI vào Việt Nam thời gian qua 22
1.2. Đánh giá năng lực của Việt Nam trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ (CGCN) 25
1.3. Thực trạng CGCN qua các dự án FDI vào Việt Nam 29
1.3.1. Trình độ công nghệ được chuyển giao chưa cao 29
1.3.2. Chủ yếu dừng ở mức độ gia công, lắp ráp 30
1.3.3. Chính sách chưa hoàn thiện, thiếu nhất quán 30
1.3.4. Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển 32
2. Thành công 33
3. Những tồn tại 37
4. Các yếu tố tác động 39
IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CGCN QUỐC TẾ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ FDI 40
1. Giải pháp từ phía Nhà nước 40
1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách nhằm thu hút FDI và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ 40
1.2. Phát triển toàn diện nhân tố con người 41
1.3. Cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật 42
1.4. Rà soát và đánh giá: 42
2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 42
2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động trong việc lựa chọn những công nghệ thích hợp vừa mang lại hiệu quả cao, vừa phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước 42
2.2. Khuyến khích sáng tạo, cải tiến kỹ thuật trong quá trình sử dụng công nghệ. 43
2.3. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ lao động 44
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46


NỘI DUNG
I. CÔNG NGHỆ VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
1. Những hiểu biết về công nghệ
1.1. Định nghĩa Công nghệ
Công nghệ là một sản phẩm do con người tạo ra, chính vì vậy khi xuất hiện loài người là lúc Công nghệ ra đời, chính nó làm công cụ để sản xuất ra của cải vật chất. Thực tế cho thấy sự phát triển của xã hội loài người có nguyên nhân sâu xa của hệ thống CN. Mỗi một mốc đánh dấu sự phát triển của loài người đều gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của một loại hình CN nào đó.
VD: Thời kỳ đồ đá: sản xuất, công tác, lao động bằng đá.
- Thời kỳ đồ đồng: CN luyện kim màu.
- Thời kỳ đồ sắt: CN luyện kim đen.
- Thế kỷ 18 CN hóa: phát minh máy hơi nước, ...
Tuy vậy cho đến tận bây giờ, định nghĩa về công nghệ lại chưa hoàn toàn thống nhất. Điều đó được giải thích là do số lượng các loại công nghệ có nhiều đến mứckhông thể thống kê hết được, ngay một sản phẩm lại có nhiều công nghệ khác nhau nên những người sử dụng công nghệ ở trong các điều kiện và hoàn cảnh khác nhau sẽ dẫn đến sự hiểu biết của họ về công nghệ không thể giống nhau.
- Xuất phát từ các luận điểm trên, chúng ta thừa nhận một số định nghĩa thông dụng nhất hiện nay: Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc UNIDO “Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp”.
- Theo tổ chức Uỷ ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and the Pacific – ESCAP) đưa ra định nghĩa “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Công nghệ bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, sáng chế, công thức chế tạo, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ.” Định nghĩa công nghệ của ESCAP là một bước ngoặt trong lịch sử phát triển Công nghệ, nó là định nghĩa được thừa nhận rộng rãi nhất hiện nay. Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới dùng công nghệ, mà khái niệm công nghệ đuợc mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội. Những lĩnh vực công nghệ mới mẻ dần trở thành quen thuộc công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, công nghệ du lịch, công nghệ văn phòng…
- Ở Việt Nam, theo luật chuyển giao công nghệ (2006) “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết, kỹ thuật,có kềm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”
Cũng cần lưu ý rằng, trong nhiều trường hợp khi cần thiết, người ta vẫn thừa nhận những định nghĩa công nghệ khác cho một mục đích nào đó. Ví dụ, trong lý thuyết tổ chức người ta coi “công nghệ là khoa học và nghệ thuật dùng trong sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ”.
Hiện nay có tồn tại những quan điểm trái ngược nhau về CN.
+ Tích cực: CN đó là nguồn của cải, phúc lợi của loài người, là động lực của sự phát triển, nâng cao chất lượng sống.
+ Tiêu cực: CN làm tăng bất công, nới rộng khoảng cách giàu nghèo, tăng thất nghiệp.
• Chênh lệch trong phân phối thu nhập chính do sự phát triên CN phân đông dân số chiếm % thu nhập trong khi đó 1 số ít lại có thu nhập cao ---> họ có ảnh hưởng tới việc điều chỉnh CN theo hướng thu lợi nhuận cao hơn nữa.
- CN tạo ra sự thất nghiệp cơ cấu.
- Suy giảm chất lượng MT.
- Tạo ra chến tranh dủy diệt.
Các quan điểm tiêu cực này sở dĩ đứng vững bởi có nhiều tác động tiêu cực của CN nhưng chủ yếu là do thực hiện sai mục đích ... ---> CN luôn chứa đựng trong nó tính 2 mặt nhưng tổ hợp những tích cực và tiêu cực do CN gây ra tùy thuộc vào quan điểm sử dụng cũng như khả năng mỗi quốc gia, mỗi đơn vị.
1.2. Các bộ phận cấu thành một công nghệ
Bất cứ công nghệ nào, dù đơn giản cũng phải gồm có bốn thành phần. Các thành phần này tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện quá trình biến đổi mong muốn. Các thành phần này hàm chứa trong phương tiện kỹ thuật (Facilities), trong kỹ năng của con người (Abilities), trong các tư liệu (Facts) và khung thể chế (Framework) để điều hành sự hoạt động của công nghệ.
a/ Công nghệ hàm chứa trong các vật thể bao gồm:
Các công cụ, thiết bị máy móc, phương tiện và các cấu trúc hạ tầng khác. Trong công nghệ sản xuất các vật thể này thường làm thành dây chuyền để thực hiện quá trình biến đổi (thường gọi là dây chuyển công nghệ), ứng với một qui trình công nghệ nhất định, đảm bảo tính liên tục của quá trình công nghệ. Có thể gọi thành phần này là phần kỹ thuật (Technoware – ký hiệu T).
b/ Công nghệ hàm chứa trong kỹ năng công nghệ của con người làm việc trong công nghệ bao gồm:
Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng do học hỏi, tích luỹ được trong quá trình hoạt động, nó cũng bao gồm các tố chất của con người như tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng phối hợp đạo đức lao động… Có thể gọi thành phần này là phần con người (Humanware – ký hiệu H).
c/ Công nghệ hàm chứa trong khung thể chế để xây dựng cấu trúc tổ chức:
Những quy định về trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ, sự phối hợp của các cá nhân hoạt động trong công nghệ, kể cả những quy trình đào tạo công nhân, bố trí sắp xếp thiết bị nhằm sử dụng tốt nhất phần kỹ thuật và phần con người. Có thể gọi thành phần này là phần tổ chức (Orgaware ký hiệu O).
d/ Công nghệ hàm chứa trong các dữ liệu đã được tư liệu hoá được sử dụng trong công nghệ, bao gồm :
Các dữ liệu về phần kỹ thuật, về phần con người và phần tổ chức . Ví dụ, dữ liệu về phần kỹ thuật như: Các thông số về đặc tính của thiết bị, số liệu về vận hành thiết bị, để duy trì và bảo dưỡng, dữ liệu để nâng cao và dữ liệu để thiết kế các bộ phận của phần kỹ thuật. Có thể gọi thành phần này là phần thông tin của công nghệ (Inforware – ký hiệu I).
Các thành phần của một công nghệ có quan hệ mật thiết bổ sung cho nhau, không thể thiếu bất cứ thành phần nào. Tuy nhiên, có một giới hạn tối thiểu cho mỗi thành phần để có thể thực hiện quá trình biến đổi, đồng thời có một giới hạn tối đa cho mỗi thành phần để hoạt động biến đổi không mất đi tính tối ưu hoặc tính hiệu quả.
Nếu không hiểu chức năng và mối tương hỗ giữa các thành phần của một công nghệ, có thể dẫn đến lãng phí trong đầu tư trang thiết bị do các thành phần khác không tương xứng (hay không đồng bộ) khiến trang thiết bị, máy móc không phát huy hết tính năng của chúng.
Phần kỹ thuật là cốt lõi của bất kỳ công nghệ nào. Nhờ máy móc, thiết bị, phương tiện, con người tăng được sức mạnh cơ bắp và trí tuệ. Bất kỳ một quá trình biến đổi nào cũng có thể mô tả thông qua bốn đặc tính: mức năng lượng phát ra; mức độ phức tạp, các xử lý và công cụ cần dùng, năng suất và mức độ chính xác có thể đạt được. Xét trên bốn đặc tính đó, máy móc đạt được kết quả cao hơn con người như: nhanh hơn, mạnh hơn, phức tạp hơn và chính xác hơn.
Để dây chuyền công nghệ có thể hoạt động được, cần có sự liên kết giữa phần kỹ thuật, phần con người và phần thông tin. Con người làm cho máy móc hoạt động, đồng thời con người còn có thể cải tiến, mở rộng các tính năng của nó. Do mối tương tác giữa phần kỹ thuật, con người, thông tin nên khi phần kỹ thuật được nâng cấp, thì phần con người, phần thông tin cũng phải được nâng cấp tương ứng. Con người đóng vai trò chủ động trong bất kỳ công nghệ nào.
Trong công nghệ sản xuất, con người có hai chức năng: điều hành và hỗ trợ. Chức năng điều hành gồm: vận hành máy móc, giám sát máy móc hoạt động. Chức năng hỗ trợ gồm bảo dưỡng, bảo đảm chất lượng, quản lý sản xuất. Sự phức tạp của con người không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng làm việc mà còn ở thái độ của từng cá nhân đối với công việc. Con người quyết định mức độ hiệu quả của phần kỹ thuật. Điều này liên quan đến thông tin mà con người đuợc trang bị và hành vi (thái độ) của họ dưới sự điều hành của tổ chức.
Phần thông tin biểu hiện các tri thức đuợc tích luỹ trong công nghệ, nó giúp trả lời câu hỏi “làm cái gì, know what” và “làm như thế nào – know how”. Nhờ các trí thức áp dụng trong công nghệ mà các sản phẩm của nó có các đặc trưng mà sản phẩm cùng loại của các công nghệ khác làm ra không thể có được. Do đó phần thông tin thường được coi là “sức mạnh” của một công nghệ. Tuy nhiên “sức mạnh” của công nghệ lại phụ thuộc con người, bởi vì con người trong quá trình sử dụng sẽ bổ sung, cập nhật các thông tin của công nghệ. Mặt khác, việc cập nhật thông tin của công nghệ để đáp ứng với sự tiến bộ không ngừng của khoa học.
Phần tổ chức đóng vai trò điều hoà, phối hợp ba thành phần trên của công nghệ để thực hiện hoạt động biến đổi một cách hiệu quả. Nó là công cụ để quản lý: lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự, động viên thúc đẩy và kiểm soát mọi hoạt động trong công nghệ. Đánh giá vai trò của phần tổ chức, người ta coi nó là “động lực” của một công nghệ.
Mức độ phức tạp của phần tổ chức trong công nghệ phụ thuộc vào mức độ phức tạp của ba thành phần còn lại của công nghệ. Do đó khi có thay đổi trong các thành phần đó, phần tổ chức cũng phải được cải tổ cho phù hợp.

Hình 1.1. Minh hoạ mối quan hệ giữa bốn thành phần công nghệ
Hình 1.1. Mô tả mối quan hệ giữa bốn thành phần của một công nghệ, trong đó phần H như bộ não, phần T như trái tim, không khí chung quanh như thông tin I, tất cả nằm trong ngôi nhà tổ chức O.
1.3. Thuộc tính của công nghệ
Công nghệ mang tính hệ thống:
Không thể nhìn nhận và cắt công nghệ ra từng giải pháp riêng lẻ. Các giải pháp cũng không phải là một số cộng đơn giản mà là các yếu tố cấu thành của một hệ thống.
Công nghệ mang thuộc tính sinh thể:
Công nghệ có những đặc điểm để có thể coi nó như một cơ thể sống. Bất kỳ một loại công nghệ mới nào được hình thành đều trải qua các giai đoạn cơ bản, có quan hệ mật thiết với nhau: nghiên cứu – triển khai – trình diễn – tăng trưởng – bão hòa – lỗi thời và bị thay thế bằng một công nghệ khác.
Ngày nay, chu kỳ sống của công nghệ đã bị rút ngắn rất nhiều, trước đây trung bình từ 5-10 năm, nay chỉ còn 1-2 năm, thậm chí có những công nghệ trong ngành máy tính cứ 6 tháng lại ra một thế hệ mới. Sự cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn giữa cải tiến công nghệ hiện có để kéo dài chu trình sống của công nghệ hoặc nghiên cứu để tạo ra một công nghệ mới về chất và bắt đầu một chu kỳ sống mới. Do vậy, điều cốt yếu là phải nắm vững thị trường, dự đoán được thời hạn khai tahcs của công nghệ trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể để có quyết định nhạy bén về chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ.
Công nghệ mang tính đặc thù:
Đặc thù theo mục tiêu: tuy khái niệm công nghệ rất rộng lớn nhưng rất cụ thể, công nghệ phải giải quyết một mục tiêu cụ thể. Công nghệ nào sản phẩm ấy, mỗi công nghệ cho phép đạt được một sản phẩm nhất định với số lượng nhất định và tiêu hao vật tư, lao động nhất định. Xuất phát từ thuộc tính đặc thù công nghệ, hoạt động nghiên cứu và triển khai phải được định hướng như thế nào để đi đến mục tiêu. Mỗi nhà đầu tư lại có mục tiêu kahcs nhau. Chính vì vậy, đây là bài toán đặt ra cho nhà đầu tư, quản lý khi hoạch định chính sahcs công gnheej cho doanh nghiệp cũng như cho Quốc gia.
Đặc thù về địa điểm: mỗi công nghệ đều được sống trong một môi trường cụ thể, nhìn bề ngoài giống nhau nhưng khi đặt ở 2 vị trí khác nhau, hai nước khác nhau sẽ khác nhau do chịu ảnh hưởng của các yếu tố đặc thù về con người, các yếu tố đầu vào, thị trường, môi trường, văn hóa, xã hội… điều này cho thấy chuyển giao công nghệ không đơn thuần là chuyển dịch công nghệ từ vị trí địa lý này sang vị trí kahcs mà là cả một quá trình cải tiến, sửa đổi, thích nghi văn hóa, địa phương hóa cho phù hợp với điều kiện của môi trường mới.
Công nghệ mang thuộc tính thông tin:

Bắt nguồn từ khoa học, công nghệ mang bản chất thông tin. Thông tin công nghệ không dừng lại ở việc mô tả bản chât của các giải pháp công nghệ, mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố hàm chứa mà còn tổng hợp nhiều khía cạnh về giá cả, điều kiện áp dụng, khả năng đạt hiệu quả sử dụng công nghệ… để các doanh nghiệp có thể quyết định đầu tư nhằm có được và sử dụng được côn nghệ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
1.4. Phân loại công nghệ:
1.4.1. Theo số lần chuyển giao công nghệ
a) Công nghệ nguồn: Là công nghệ được tạo ra lần đầu từ các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích.
Công nghệ nguồn mang tính hiện đại thường có nguồn gốc từ các nước công nghiệp phát triển.
Các nước đang phát triển cũng có khả năng tạo ra được công nghệ nguồn nhưng chưa hẳn đấy là công nghệ tiên tiến và hiện đại. Ví dụ, công nghệ sản xuất kẹo dừa ở Bến Tre là công nghệ nguồn, nhưng công nghệ này lại sử dụng các thao tác lạc hậu.
b) Công nghệ thứ cấp: Là công nghệ được chuyển giao lần thứ nhất, hoặc là công nghệ thứ cấp lần thứ 2, lần thứ 3... Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đều có những công nghệ hiện đại nhưng phần lớn đều không phải là công nghệ nguồn nhưng được chuyển giao lần đầu từ Mỹ hoặc Anh, ví dụ điện thoại di động SAMSUNG rất hiện đại nhưng phải sử dụng tới 40% phát minh sáng chế của Mỹ. Như vậy, SAMSUNG không làm chủ công nghệ nguồn.
Theo mức độ tiên tiến của công nghệ
a) Công nghệ cao, hiện đại: có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tạo ra các sản phẩm, đơn vị có chất lượng và giá trị gia tăng cao, có khả năng tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới; hoặc cải tiến, hiện đại hóa ngành sản xuất dịch vụ hiện có.
b) Công nghệ trung bình: thường là công nghệ thứ cấp, đã được chuyển giao nhiều lần, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Ở các nước đang phát triển, thường sử dụng công nghệ trung bình vì nó phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn.
c) Công nghệ lạc hậu: là loại công nghệ mà việc sử dụng chúng tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh thấp, năng suất lao động không cao, phần lớn gây ô nhiễm môi trường.
1.4.2. Theo hình thức biểu hiện của công nghệ
a) Công nghệ phần cứng: biểu hiện hữu hình của công nghệ, bao gồm thiết bị máy móc, công cụ, máy tính…
b) Công nghệ phần mềm: biểu hiện vô hình của công nghệ, bao gồm chương trình, quy tắc, hướng dẫn.
=> Khi muốn nâng cao công nghệ cần kết hợp nâng cao cả phần cứng lẫn phần mềm để đạt được hiệu suất cao nhất.
1.4.3. Theo mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ
a) Công nghệ có hàm lượng lao động cao: chế biến nông sản, may mặc, giày da, lắp ráp điện tử.
b) Công nghệ có hàm lượng vốn cao: đóng tàu, cơ khí, khai khoáng, chế biến dầu mỏ.
c) Công nghệ có hàm lượng tri thức cao: phần mềm, sinh học…
1.4.4. Theo ngành
Bao gồm các ngành như công nghệ Nano, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ cơ khí và tự động hóa, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học…
1.4.5. Theo mức độ khuyến khích của nhà nước
a) Nhóm 1: Công nghệ được khuyến khích chuyển giao, bao gồm các công nghệ tiên tiến, góp phần tạo ra sản phẩm dịch vụ hiện đại, nâng cao năng suất lao động…(Theo điều 9, luật công nghệ)
b) Nhóm 2: Công nghệ hạn chế chuyển giao: nhằm mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc, bảo vệ động, thực vật, tài nguyên, môi trường…(Theo điều 10, luật công nghệ)
c) Nhóm 3: Công nghệ cấm chuyển giao: đó là những công nghệ không đáp ứng được quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, vệ sinh môi trường, công nghệ tạo ra các sản phẩm ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng…các công nghệ thuộc danh sách bí mật nhà nước. (Theo điều 11, luật công nghệ)

2. Vấn đề chuyển giao công nghệ quốc tế
2.1. Khái niệm về chuyển giao công nghệ (CGCN)
* Theo tổ chức ESCAP:
- Nghĩa hẹp: CGCN là sự cho phép của một người có thẩm quyền tuyệt đối cho một Người khác để sử dụng nội dung công nghệ trong một thời gian nhất định và cam kết không sử dụng quyền tuyệt đối của mình để chống lại Người được trao quyền trong suốt thời gian đó.
- Nghĩa rộng: CGCN là sự chuyển giao các kiến thức kỹ thuật từ Người có kiến thức sang Người chưa có kiến thức và mong muốn có được kiến thức đó.
- * Luật Chuyển Giao Công Nghệ 80/2006/QH11: CGCN là chuyển giao quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.
2.2. Các hình thức chuyển giao công nghệ quốc tế
- Dựa theo các tiêu chí khác nhau về vấn đề CGCN mà người ta phân loại các hình thức CGCN khác nhau.
2.2.1. Phân loại theo mức độ khống chế của bên CGCN
- a) Chuyển giao giản đơn: người làm chủ công nghệ bán lại cho người mua CN trong 1 thời gian và phạm vi hạn chế.
- Ưu điểm: giá cả công nghệ thấp, tuy nhiên bị hạn chế ở chỗ người chủ có thể bán cho một hoặc nhiều người muốn mua trên cùng địa phương; người mua không có quyền bán lại công nghệ đã được chuyển giao.
- b) Chuyển giao công nghệ không độc quyền: người bán trao quyền sử dụng công nghệ cho người mua giới hạn trong một phạm vi lãnh thổ (tỉnh, khu vực, trong một nước…)
- Ưu điểm: người bán công nghệ không được bán cho đối tượng sử dụng khác trong phạm vi vị trí địa lý quy định của hợp đồng, vì vậy tránh được đối thủ cạnh tranh cho người mua công nghệ khi sản xuất sản phẩm. Người mua không có quyền chuyển giao công nghệ cho bên thứ ba theo bất kỳ hình thức nào, vì vậy đảm bảo được bí quyết công nghệ.
- Nhược điểm: do tính bảo mật cao như trên, nên giá cả công nghệ theo hình thức này thường khá cao, các nước đang phát triển khó tiếp cận.
- c) Chuyển giao độc quyền: là hình thức người bán trao toàn bộ quyền sử dụng công nghệ cho người mua trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng.
- Ưu điểm: Người mua công nghệ trở thành chủ thật sự của công nghệ trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng.
- Nhược điểm: Người mua có thể bán lại công nghệ đã mua=>gây khó khăn cho người bán trong việc để lộ thông tin của công nghệ.
- Người mua có thể bị đơn phương hủy hợp đồng từ người bán nếu không tuân thủ các điều kiện hợp đồng đưa ra.
2.2.2. Phân loại theo chiều sâu công nghệ chuyển giao
- Được chia thành 4 mức độ:
- a) Mức độ 1: Trao kiến thức, việc chuyển giao chỉ đơn thuần ở mức độ truyền đạt kiến thức bằng cách đưa công thức, hướng dẫn, tư vấn về kỹ thuật.
- b) Mức độ 2: Chìa khóa trao tay : người bán công nghệ phải lắp đặt máy móc, hướng dẫn quy trình, hoàn tất toàn bộ quá trình sản xuất, người mua chỉ việc nhận công trình và bước ngay vào sản xuất. Vì vậy, giá trị hợp đồng chuyển giao cũng cao hơn gấp nhiều lần so với mức độ ban đầu.
- **Ưu điểm: - Bên nhận ít rủi ro, có thể vận hành nhà máy ngay
- - Đảm bảo các yếu tố đồng bộ
- **Nhược điểm: - Hình thức CGCN thụ động, có thể có tác dụng ngay về thương mại, ít có tác dụng về phương diện nâng cao năng lực CN
- - CN được chuyển giao do bên giao quyết định do đó có một số điểm không phục vụ cho các mục tiêu phát triển CN của bên nhận CN
- - Chi phí cao hơn rất nhiều so với hình thức khác do không tận dụng được năng lực cung ứng dịch vụ phụ trợ của công ty nước sở tại.
- c) Mức độ 3: Trao sản phẩm: người bán có trách nhiệm giúp người mua hoàn thành việc lắp đặt công nghệ và đồng thời sản xuất thành công sản phẩm.
- d) Mức độ 4: Trao thị trường: đây là mức CGCN sâu nhất, ngoài việc chuyển giao như ở mức độ 3, bên bán công nghệ phải bàn giao một phần thị trường mà họ đang có cho bên nhận công nghệ, ở nơi mà họ đã xâm nhập thành công cho bên mua công nghệ. Thông thường, chuyển giao ở mức độ này được thực hiện dưới dạng liên doanh sản xuất.
2.2.3. Phân loại theo hình thái công nghệ được chuyển giao
- a) Chuyển giao công nghệ theo chiều dọc: chuyển giao từ lúc có các nghiên cứu cơ bản, tức là bao gồm cả các kết quả nghiên cứu, thậm chí CGCN trong trường hợp chưa có sản phẩm trên thị trường.
- **Ưu điểm
- Bên nhận công nghệ có thể sở hữu công nghệ mới chưa xuất hiện trên thị trường.
- Bên nhận công nghệ hoàn toàn làm chủ công nghệ được chuyển giao.
- **Hạn chế
- Đòi hỏi bên nhận công nghệ phải có trình độ và cơ sở VCKT để tiếp nhận công nghệ.
- Người CGCN mất quyền kiểm soát quyền sở hữu trí tuệ đối với công nghệ.
- Giá cao.
- b) CGCN theo chiều ngang: CGCN khi sản phẩm đã có được tổ chức sản xuất và đã được tung ra thị trường.
- **Ưu điểm: - Chi phí mua CN này thường rẻ hơn
- - Ít rủi ro trong quá trình áp dụng CN này vì đã từng được sử dụng
- - Bên chuyển giao đã có kinh nghiệm trong việc áp dụng CN
- **Hạn chế: - Sử dụng CN cũ, đôi khi lạc hậu, lỗi thời
- - Nguy cơ trở thành nơi chứa đựng “rác CN”
2.2.4. Phân loại theo hình thức chuyển giao công nghệ
- Theo luật chuyển giao công nghệ Việt Nam 80/2006/QH11:
- a) Hợp đồng CGCN độc lập
- b) Trong dự án hoặc hợp đồng: dự án đầu tư, hợp đồng nhượng quyền thương mại, hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo chuyển giao công nghệ
- c) Hình thức CGCN khác theo quy định của pháp luật.
2.2.5. Phân loại theo cách thức (phương thức) CGCN
- a) Qua hoạt động thương mại: thực chất là hoạt động xuất nhập khẩu máy móc kèm theo CGCN
- **Ưu điểm: Cho phép người mua lựa chọn công nghệ phù hợp nhất.
- **Nhược điểm: Tiếp nhận công nghệ sẽ kém hiệu quả nếu người mua không có năng lực.
- b) Qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài: đây là hình thức của các công ty đa quốc gia- công ty mẹ chuyển giao 1 phần, hoặc toàn bộ công nghệ cho công ty con.
- **Ưu điểm: Diễn ra nhanh gọn, ít phức tạp; nội dung đầy đủ, giữ được bí mật, có thể chuyển giá, nâng cao trình độ lao động ở nước sở tại.
- **Nhược điểm: Không làm tăng tiềm lực công nghệ quốc gia, gây khó khăn cho cty nội địa do hành vi chuyển giá.
- c) Qua liên doanh:
- **Ưu điểm: Bên chuyển giao tận dụng được chi phí khi đầu tư ra nước ngoài. Bên nhận công nghệ được tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm điều hành, nâng cao trình độ cho người lao động.
- **Nhược điểm: xảy ra hành vi nâng giá công nghệ, công nghệ lạc hậu, hạn chế tiếp nhận CGCN tiên tiến hơn.
- d) Qua mạng Internet:
- **Ưu điểm: không tốn kém chi phí giao dịch, tiếp cận; nâng cao trình độ quản lý.
- **Nhược điểm: nâng giá công nghệ, công nghệ lạc hậu, hạn chế tiếp nhận CGCN tiên tiến hơn.
3. Hợp đồng chuyển giao công nghệ:
3.1.1. Khái niệm
Hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận bằng văn abnr giữa các bên ký kết  về việc thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ với các quy định rõ ràng về quyền, quyền lợi bà nghĩa vụ mỗi bên.
Văn bản hợp đồng chuyển giao công nghệ do các chủ thể của hợp đồng chuyển giao công nghệ xây dựng trên cơ sở quy định của pháp luật, văn bản này có giá trị pháp lý buộc các bên phải có trách nhiệm thực hiện các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận và ký kết.
3.1.2. Đặc điểm
Hình thức hợp đồng phải bằng văn bản, không chấp nhận các hình thưc hợp đồng miệng hoặc các dạng khác với hình thức văn bản.
Thời hạn hợp đồng chuyển giao công nghệ tương đối đài và phải phù hợp với quy định của nhà nước.
Hợp đồng chuyển giao công nghệ chỉ có hiệu lực khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn.
3.1.3. Đối tượng
Chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp:
- Sáng chế
- Giải pháp hữu ích
- Kiểu dáng công nghiệp
- Nhẫn hiệu hàng hóa
- Tên gọi, xuất xứ hàng hóa
Những đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ là đối tượng mua bán khi được nhà nước bảo hộ. Những đối tượng sở hữu công nghiệp trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo và đạo đức xã hội thì không được bảo hộ và đương nhiên không được chuyển giao.
Chuyển giao thông qua việc mua bán, cung cấp các đối tượng như sau:
- Bí quyết kỹ thuật
- Quy trình công nghệ
- Tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật
- Công thức, bản vẽ, sơ đồ, bảng biểu
- Thông số kỹ thuật hoặc kiến thức kỹ thuật chuyên môn khác.
Thực hiện các hình thức hỗ trợ và tư vấn sau:
- Hỗ trợ kỹ thuật, lựa chọn công nghệ, hưỡng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử dây chuyền công nghệ
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá, nghiên cứu cơ hội, nghiên cứu tiền khả thi và khả năng của dự án đầu tư và đổi mwois công nghệ
- Tư vấn quản lý công nghệ, tổ chức và vận hành các quá trình công nghệ và sản xuất.
- Đào tạo, huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý của cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân.
- Thực hiện dịch vụ về thư thập, xử lý và cung cấp thông tin về thị trường, công nghệ, pháp lý, tài nguyên và môi trường.
3.1.4. Nội dung chủ yếu
Một hợp đồng  chuyển giao công nghệ bao gồm những giới hạn ở các điều khoản chủ yếu sau đây:
Tên, địa chỉ của bên giao và bên nhận, tên, chức vụ của người đại diện bên gioa và bên nhận.
Các định nghĩa sử dụng trong hợp đồng
Đối tượng chuyển giao công nghệ:
Tên công nghệ hoặc dịch vụ
Mục tiêu của việc chuyển giao công nghệ
Giá trị kinh tế và kỹ thuật của mỗi nội dung công nghệ được chuyển giao
Kết quả dự kiến sau khi thực hiện chuyển giao công nghệ
Các điều khoản liên quan đến quyền sở hữu coong nghệ
Thời hạn, tiến độ và địa điểm cung cấp công nghệ
Thanh toán
Giá cả
Điều kiện thanh toán
Phương thức thanh toán
Cam kết của các bên về:
Chất lượng công nghệ
Độ tin cậy của công nghệ
Thời hạn bảo hành
Đảm bảo bí mật
Bảo vệ môi trường
Cam kết khác nhầm đảm bảo không có sai sót trong chuyển giao
Chương trình đào tạo cần thiết liên quan đến công nghệ được chuyển giao:
Trách nhiệm của các bên trong việc tổ chức đào tạo
Hình thức, nội dung và lĩnh vực đào tạo
Thời gian, địa điểm và chương trình đào tạo
Chi phí cho đào tạo
Mục tiêu và trình độ đạt được sau khi đào tạo
Thời hạn thực hiện hợp đồng
Các vấn đề liên quan đến những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
Luật áp dụng
Hình thức xử lý tranh chấp
Cơ quan giải quyết tranh chấp


II. KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
1. Malaysia
1.1. Thực trạng
Vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Malaysia bắt đầu tăng kể từ sau cơn khủng hoảng kinh tế nằm 1985-86, từ 1 tỷ RM vào năm 1985 lên 18 tỷ RM vào năm 1990. Bên cạnh nỗ lực của chính phủ Malaysia trong việc thu hút nguồn vốn FDI, nước này cũng được hưởng lợi từ việc phân bố lại các ngành công nghiệp ở các nước công nghiệp hiện đại như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan do việc gia tăng chi phí sản xuất và giá trị đồng tiền của những nước này.  Malaysia đã không bỏ lỡ việc nắm bắt cơ hội này.
-  Trong tổng giá trị 34,908 triệu RM các dự án FDI được duyệt từ năm 1985-90, nguồn đầu tư từ Nhật chiếm 25.7%.
- Giai đoạn 1985-91, đầu tư FDI của Nhật vẫn là nguồn vốn chính của các ngành công nghiệp nội địa của Malaysia. FDI của Nhật chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp điện và điện tử với 43.7%, tiếp theo là ngành hóa chất và hóa phẩm với 13.8%. Những ngành công nghiệp khác mà FDI Nhật chiếm phần quan trọng là những sản phẩm phi kim và kim loại, công nghiệp máy móc và phương tiện di chuyển.
Tiến trình công nghiệp đòi hỏi phải có kỹ thuật cao hoặc những ngành công nghiệp tri thức. Sự phát triển của những ngành công nghiệp đó phải dựa trước hết vào nguồn vốn nội địa, được hỗ trợ bởi lực lượng lao động kỹ thuật cao, lành nghề, các hoạt động nghiên cứu và phát triển; và chi phí đào tạo kỹ thuật.
Hầu hết các nhà đầu tư FDI, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật, không xem chuyển giao công nghệ là ưu tiên để chọn đặt nhà máy của họ tại Malaysia, mà họ chỉ muốn tận dụng lực lượng lao động giá rẻ ở đây. Nguyên nhân:
- Trình độ lao động không cao, dẫn đến nhà đầu tư không sẵn lòng chia sẻ bí mật công nghệ cho đối tác tiềm năng
- Những kiến thức kỹ thuật có giá trị thường không sẵn sàng cho, mà phải mua, còn các doanh nghiệp thiếu công nghệ bằng lòng chi trả mà không biết hết các tính năng của công nghệ
Việc chuyển giao công nghệ nếu có, chủ yếu là giữa những nhà đầu tư chính với các chi nhánh hoặc công ty con của nó ở Malaysia mà thôi. Thậm chí họ cũng rất miễn cưỡng khi buộc phải phân bổ quỹ Nghiên cứu và phát triển cho các chi nhánh của họ ở nước ngoài, vì phần lớn các hoạt động nghiên cứu phát triển đều được thực hiện ở bản quốc. Do đó sự gắn kết giữa FDI và các doanh nghiệp địa phương không phát triển đầy đủ như ở Nhật.
Nguồn nhân lực kỹ sư hay chuyên gia có trình độ kỹ thuật cao khá hiếm ở Malaysia, nên ban lãnh đạo của các công ty đa quốc gia chủ yếu tập trung vào công tác quản lý và tổ chức, hơn vào nghiên cứu để cải tiến sản phẩm.
Qua phân tích trên có thể thấy các doanh nghiệp FDI của Nhật là người điều khiển các phương thức sản xuất, do đó những đối tác liên doanh bản địa chỉ có quyền có giới hạn đối với công nghệ. Phần lớn các chi nhánh, công ty con của Nhật dựa vào công ty mẹ để yêu cầu máy móc, trang thiết bị, phụ tùng..
Các hoạt động Nghiên cứu và Phát triển (R&D) không mạnh, thường do công ty mẹ quản lý.
1.2. Giải pháp nhằm tăng năng lực công nghệ
- Khuyến khích các ngành công nghiệp phụ trợ
+ Làm rõ hơn các chính sách về chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho những nguồn lực khan hiếm trong những lĩnh vực ưu tiên để phát triển công nghệ
+ Tăng cường đào tạo ở các trường dạy nghề, trường kỹ thuật để phù hợp với tốc độ phát triển kỹ thuật
+ Đề xuất áp dụng những khoản hỗ trợ về tài chính để khuyến khích các hoạt động CGCN và R&D ở Malaysia: hỗ trợ dưới hình thức khuyến mãi đặc biệt cho các nhà máy nước ngoài có kế hoạch huấn luyện và đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề; chính phủ hỗ trợ các dự án R&D với điều kiện dự án đó đóng góp một phần vốn đầu tư vào dự án R&D; giảm nhập khẩu các trang thiết bị phòng thí nghiệm và đề xuất tín dụng thuế cho hoạt động đầu tư và chi phí cho R&D tại Malaysia; đầu tư trang thiết bị R&D để các nhà máy của Malaysia có thể sử dụng…
- Ưu đãi trong thu hút FDI vào các ngành công nghiệp phụ trợ thông qua Cơ quan công nghiệp nhà nước Malaysia (MIDA). Cụ thể ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp FDI đầu tư vào sản xuất máy móc và linh kiện; sản xuất các thiết bị giao thông và linh kiện và phụ tùng; các ngành công nghiệp phụ trợ; sản xuất các thiết bị và linh kiện điện, điện tử; sản xuất các sản phẩm nhựa.
- Xây dựng các chương trình phát triển các ngành quy mô nhỏ và vừa:
+ Chương trình hỗ trợ phát triển các nhà cung cấp linh kiện. Mục tiêu chính của chương trình này là tạo ra một thị trường công nghiệp mà các công ty công nghiệp quy mô nhỏ và vừa của Malaysia có thể trở thành những nhà sản xuất và cung cấp đáng tin cậy các sản phẩm đầu vào công nghiệp như máy móc, thiết bị cho các ngành công nghiệp lớn; ngoài ra VDP cũng thúc đẩy mối liên kết giữa các ngành công nghiệp nhỏ và vừa, các ngành công nghiệp và các tập đoàn tài chính trong nước và quốc tế.
+ Xây dựng cơ sở dữ liệu các nhà cung cấp linh phụ kiện, các công ty đa quốc gia, FDI có nhu cầu về sản phẩm công nghiệp phụ trợ (SE). SE cung cấp cơ sở dữ liệu trên máy tính nhằm giúp cho các SME có tiềm năng có thể tiếp cận các công ty lớn để cung cấp các sản phẩm đầu vào công nghiệp. SE khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước tham gia vào các ngành công nghiệp phụ trợ hiện đại, cạnh tranh, năng động trong các lĩnh vực sau: ôtô, xe máy; các ngành công nghiệp cao su; điện, điện tử; nhựa; các ngành sản xuất đồ gỗ; máy móc cơ khí; dệt may.
+ Tổ chức Hội chợ các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng và các hội chợ công nghiệp.
+ Tiến hành nghiên cứu sản phẩm và phân đoạn thị trường cho các sản phẩm linh kiện phụ tùng theo từng lĩnh vực cụ thể.
+ Thông qua Tổng công ty phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Malaysia thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ khác như: Chương trình liên kết hỗ trợ công nghiệp; Chương trình phát triển kỹ thuật; Chương trình hỗ trợ kỹ thuật; Chương trình nâng cao tay nghề; Chương trình phát triển xuất khẩu; và Chương trình phát triển cơ sở hạ tầng.
1.3. Bài học kinh nghiệm
- Bên cạnh việc thu hút đầu tư FDI để tiếp nhận chuyển giao công nghệ, cần phải quan tâm đúng mức đến việc đẩy mạnh các hoạt động Nghiên cứu và Phát triển (R&D) trong nước. Nếu không có nền tảng về Khoa học Công nghệ vững chắc thì rất khó để tiếp nhận Công nghệ cao từ nước ngoài.
- Để các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI, cần có sự định hướng và hỗ trợ từ phía Nhà nước và các Hiệp hội của ngành. Về vĩ mô, Nhà nước cần xác định rõ những lĩnh vực nào cần ưu tiên phát triển và đưa ra những chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào lĩnh vực đó. Bên cạnh đó, Hiệp hội các ngành phải chủ động trở thành cầu nối giữa các doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI bằng việc cung cấp thông tin bên cầu và bên cung, hoặc tổ chức các Hội chợ cho các ngành linh kiện, phụ trợ…

2. Hàn Quốc
2.1. Thực trạng
Giai đoạn đến cuối thập niên 70: chính sách du nhập công nghệ, tránh sự chi phối của nước ngoài:
+ Đưa công nghệ vào Hàn Quốc bằng hình thức ký các hợp đồng nhập khẩu công nghệ, bằng sáng chế kỹ thuật, tránh đầu tư trực tiếp
+ Trong trường hợp phải du nhập công nghệ bằng hình thức đầu tư trực tiếp, họ hạn chế tỷ lệ góp vốn của nước ngoài dưới mức 49%
Giai đoạn từ cuối thập niên 70 đến cuối thập niên 80: khuyến khích đầu tư của nước ngoài:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài được phép tham gia vào một nửa trong số các ngành công nghiệp quốc gia. Ngành công nghiệp chế biến/ chế tạo chiếm khoảng 75% các ngành công nghiệp được phép đầu tư
+ Các ngành được nhà nước coi là “ưu tiên” khuyến khích đầu tư thì tài sản của nước ngoài được phép lên đến 100%, các ngành khác sẽ là 50%
+ Các doanh nghiệp tuân thủ đúng Đạo luật khuyến khích đầu tư nước ngoài (FCIA) được phép chuyển toàn bộ vốn và lợi nhuận về nước.
2.2. Giải pháp
Hàn Quốc vừa thu hút công nghệ của nước ngoài, vừa nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ, hoàn chỉnh môi trường để công nghệ đó phát huy hiệu quả bằng những chính sách như:
- Chú trọng vào các hoạt động R&D:
+ Tăng tỷ lệ chi tiêu cho các hoạt động R&D: Chi tiêu cho R&D vào năm 1970 là 10,5 tỷ won, đến năm 1975 là 42,7 tỷ won (tăng gấp 4) và đạt 211,7 tỷ won (tăng gần gấp 5) vào năm 1980. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong tổng sản phẩm quốc dân GNP vào nửa đầu thập niên 70 chỉ là 0.3%, đến nửa cuối thập niên 70 là 0,6%; nửa đầu thập niên 80 là 1%, nửa cuối thập niên 80 là 2%.
+ Vai trò chủ đạo trong hoạt động R&D chuyển từ chính phủ (trước thập niên 70) sang tư nhân (sau thập niên 70): tổng kim ngạch chi tiêu cho R&D của chính phủ vào năm 1965 chiếm 90%, năm 1980 giảm còn 50%, và đến năm 1985 chỉ còn 20%. Chính phủ chỉ tổ chức và điều hành các dự án tầm cỡ quốc gia nhằm thúc đẩy phát triển các ngành công nghệ mũi nhọn, áp dụng chính sách ưu đãi thuế cho các hoạt động R&D của các xí nghiệp tư nhân
+ Thiết lập các cơ quan nhằm hoàn thiện cơ sở cho việc du nhập, khai thác và phát triển công nghệ
- Nâng cao trình độ giáo dục cho toàn dân để nâng cao chất lượng lao động, nhằm đặt mục tiêu cuối cùng là nâng cao khả năng tiếp thu và phát triển công nghệ. Tỷ trọng dành cho giáo dục trong ngân sách chính phủ vào thập niên 50 là 9-10%, nửa đầu thập niên 60 là 15-16%, nửa cuối thập kỷ 60 là 17-18%, đến đầu thập kỷ 80 đã tăng lên đến 19-21%. Kết quả là:
+ tỷ lệ học cấp 3: 1965: 34%  1975: 56%  1984: 91%
+ Tỷ lệ học đại học: 1965: 6%  1975: 10%  1984: 26% (Nhật Bản trong cùng thời kỳ là 29%)
- Cán bộ trong các liên doanh có ý thức tự chủ, không ngừng tranh thủ học hỏi công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài để giảm bớt sự phụ thuộc vào nước ngoài.

2.3. Bài học kinh nghiệm
Đầu tư đúng mức cho các hoạt động Nghiên cứu và Phát triển (R&D). Khuyến khích vùng kinh tế tư nhân tham gia vào hoạt động này nhằm tăng tính thực tiễn và chủ động hơn cho các doanh nghiệp. Du nhập FDI bằng những điều kiện có lợi nhất, sau đó nhanh chóng học hỏi bí quyết kinh doanh để nhanh chóng làm chủ dự án FDI. Điển hình là trường hợp Hàn Quốc du nhập công nghệ tơ sợi tổng hợp từ Nhật và phải theo hình thái FDI, và họ đã chủ động nỗ lực vượt bậc để trong thời gian ngắn làm chủ công nghệ đó, khiến công ty Nhật phải dần dần rút vốn về.
Để sẵn sàng tiếp nhận chuyển giao công nghệ, quan trọng hơn cả vẫn phải là đào tạo đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề cao. Đặc biệt, cần phải đào tạo đội ngũ kỹ sư, nhà quản lý có chuyên môn cao để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài, nhanh chóng nắm bắt và làm chủ công nghệ. Nếu không, quốc gia đó chỉ mãi dừng ở mức độ gia công, lắp ráp cho nước ngoài.

III. THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng đầu tư FDI vào Việt Nam
1.1. Thực trạng đầu tư FDI vào Việt Nam thời gian qua
Tính đến tháng 6-2013, Việt Nam có 15.067 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký khoảng 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106,3 tỷ USD, chiếm khoảng 48,6%. Riêng năm 2013, FDI có sự đảo chiều tăng trở lại ngoạn mục so với giai đoạn đi xuống liên tục kể từ 2009-2012, với kết quả khả quan cả về vốn đăng ký mới, vốn bổ sung và vốn thực hiện, cũng như cơ cấu ngành và chủ đầu tư.
FDI được cấp phép giai đoạn 1988 – Tháng 8/2014
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014)
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.

Thực trạng đầu tư FDI tại Việt Nam theo hình thức
(các dự án còn hiệu lực đến Tháng 8/2014)
(Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài, 2014)
Các doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng cao, làm giảm khả năng lan tỏa công nghệ từ nước ngoài tới các khu vực khác trong nền kinh tế Việt Nam.

Thực trạng đầu tư FDI tại Việt Nam theo ngành
(các dự án còn hiệu lực đến Tháng 8/2014)
(Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài, 2014)
Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm gần 55% tổng số dự án, 54% tổng số vốn đầu tư. Trong khi đó, bất động sản chiếm chỉ có 2.5% tổng số dự án, nhưng lại chiếm đến 20% tổng số vốn đầu tư. Sở dĩ đầu tư nước ngoài vào bất động sản tăng, là do các nhà đầu tư nước ngoài đang muốn đón đầu cơ hội, chờ khi Chính phủ thông qua chính sách mở cửa, cho phép người nước ngoài có nhà tại Việt Nam.
Vốn FDI chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa. Tuy nhiên, phần lớn vốn đầu tư lại tập trung vào các ngành công nghiệp nặng, dầu mỏ, khí đốt, bất động sản là những ngành không sử dụng lợi thế về lao động của đất nước.

Thực trạng đầu tư FDI tại Việt Nam theo đối tác
(các dự án còn hiệu lực đến Tháng 8/2014)
(Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài, 2014)

Thực trạng đầu tư FDI tại Việt Nam theo địa phương
(các dự án còn hiệu lực đến Tháng 8/2014)
(Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài, 2014)

1.2. Đánh giá năng lực của Việt Nam trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ (CGCN)
CGCN qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua đã diễn ra khá đa dạng và phong phú. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta, nhất là các lĩnh vực dầu khí, điện tử, viễn thông, ô tô, xe máy… Nhiều ngành nghề, sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng kể năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiều nguồn lực trong nước như lao động, đất đai, tài nguyên được khai thác và sử dụng tương đối hiệu quả. Ngoài ra, CGCN còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, năng lực công nghệ trong nước được nâng cao.
Tuy nhiên, CGCN qua các dự án FDI ở nước ta trong thời gian qua vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế, giá trị gia tăng không cao, lợi nhuận thu về ít. Công nghệ chuyển giao chưa phải là loại tiên tiến, hiện đại: đại đa số công nghệ chuyển giao có trình độ ở mức trung bình, một số công nghệ ở mức thấp, lạc hậu. Cá biệt có trường hợp chuyển giao là công nghệ thanh lý ở một số nước đầu tư, gây nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ. Tính canh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế còn yếu kém do hầu hết công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp FDI là công nghệ đã và đang được sử dụng phổ biến ở bản quốc.

Đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam qua các năm
(Nguồn: WEF, 2014)

Đánh giá năng lực tiếp nhận FDI và CGCN của Việt Nam qua các năm
(Nguồn: WEF, 2014)


Đánh giá năng lực tiếp nhận FDI và CGCN của Việt Nam với Thái Lan và Cambodia trong hai năm 2012-2013
(Nguồn: WEF, 2014)
Môi trường đầu tư ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Chi phí cơ sở hạ tầng tại Việt Nam còn quá cao (tiền thuê đất đắt, cước viễn thông cao gấp nhiều lần so với các nước khác trong khu vực Asean, chi phí lưu thông hàng hóa quá cao…).

Bảng chi phí lao động ở các thành phố của các nước
(Nguồn: JETRO, 2014)
Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam là điểm đến thu hút đầu tư FDI chủ yếu vì nguồn lao động giá rẻ và nguồn tài nguyên dồi dào. Tuy nhiên, xét về khía cạnh chất lượng nguồn nhân lực thì Việt Nam vẫn chưa được đánh giá cao:

Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
(Nguồn: WEF, 2014)
Chỉ số KEI (Knowledge Economics Index): chỉ số về nền kinh tế kiến thức, cho thấy liệu kiến thức có được sử dụng một cách hiệu quả trong nền kinh tế hay không
Chỉ số KI (Knowledge Index): chỉ số về kiến thức, cho biết khả năng của một quốc gia trong việc tạo ra, áp dụng và phố biến kiến thức
Điểm của Việt Nam chỉ ở mức KEI 3.40 và KI 3.60, trong khi các nước láng giềng đều ở mức cao hơn rất nhiều, chẳng hạn như: Thái Lan: KEI 5.21 và KI 5.25, Malaysia: KEI 6,10 và KI 6.25 hay thậm chí Trung Quốc: KEI 4.37 và KI 4.57 cũng được đánh giá cao hơn. Điều này cho thấy, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn chỉ chú trọng thu hút đầu tư bằng nguồn lao động giá rẻ, mà chưa tập trung đúng mức để phát triển trình độ của nguồn lao động. Đây trở thành một rào cản đáng kể cho việc tiếp nhận CGCN từ nước ngoài nói chung, và từ các nguồn đầu tư FDI nói riêng.
1.3. Thực trạng CGCN qua các dự án FDI vào Việt Nam
1.3.1. Trình độ công nghệ được chuyển giao chưa cao
- Từ năm 1993 đến hết năm 2013, cả nước có 605 hợp đồng chuyển giao công nghệ của các dự án FDI. Con số này rất nhỏ so với tổng số dự án FDI tính đến 2012 (khoảng trên 14,000 hợp đồng).
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các lĩnh vực bất động sản, dịch vụ du lịch, khách sạn,… là các lĩnh vực có ít chuyển giao công nghệ.
- Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ các nước châu Á (69%, Đông Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm 24%, châu Mỹ chiếm 5%, các nước G8 mới chiếm 23,7% nên chưa thu hút được nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, công nghệ nguồn. Có một số trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc, thiết bị có công nghệ lạc hậu.

Biểu đồ miêu tả trình độ công nghệ chuyển giao tại các dự án FDI
(Nguồn: Bộ Khoa học Công nghệ, 2012)
1.3.2. Chủ yếu dừng ở mức độ gia công, lắp ráp
Nhiều dự án đăng ký đầu tư cho sản xuất sản phẩm công nghệ cao nhưng thực chất chỉ là gia công, lắp ráp thông thường, sản phẩm chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như chưa mang hàm lượng trí tuệ cao. Phần lớn các doanh nghiệp tìm đến Việt Nam như là nơi có nguồn cung lao động phổ thông (và các ưu đãi bổ sung nếu có) chứ không phải là nơi tiếp nhận công nghệ cao.
Dù công nghiệp Việt Nam đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư lớn FDI đến từ các cường quốc công nghệ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Hoa Kỳ,.., nhưng điều đó đã không hề tạo ra làn sóng tiếp thu công nghệ mới đối với DN trong nước. Nguyên nhân, về phía các nhà đầu tư lớn đang cho rằng Việt Nam chưa có đủ khả năng hấp thu công nghệ cao, vì vậy sẽ rất tốn kém và khó đạt hiệu quả khi triển khai. Do đó, họ mới chỉ đầu tư mạnh cho khâu lắp ráp là phân khúc công nghệ đơn giản, tạo ra giá trị thấp nhất, nhưng thu lợi nhuận nhanh nhất. Thêm vào đó, còn có nguyên nhân từ các DN trong nước do chưa nhận thức đẩy đủ, chưa thấy bị áp lực và chưa sẵn sàng cho việc tiếp nhận các công nghệ mới.
1.3.3. Chính sách chưa hoàn thiện, thiếu nhất quán
- Chính sách thu hút đầu tư chưa chọn lọc, chủ yếu chỉ để lấp đầy các khu công nghiệp và bổ sung vốn.
- Đưa ra nhiều ưu đãi về thuế và giá đất, nhưng không kèm theo những ràng buộc, do đó, khi môi trường không còn thuận lợi, nhà đầu tư dễ dàng rút đi.
- Chính sách thiếu nhất quán, chưa thể hiện được định hướng lâu dài của Việt Nam trong việc thu hút FDI.
Có thể kể ra một ví dụ minh chứng như việc ban hành Thông tư 20 của Bộ Khoa học Công nghệ và việc nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty Microsoft tại Việt Nam. Thông tư 20/2014/TT-BKHCN của Bộ KHCN ban hành ngày 15/7/2014, có hiệu lực ngày 1/9/2014, quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng. Theo nội dung của thông tư này, thì máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng muốn được nhập khẩu về Việt Nam không được quá 5 năm tuổi, đồng thời chất lượng còn lại tại thời điểm nhập khẩu phải tối thiểu tương đương 80% với chất lượng ban đầu.
Trong một công văn mới gửi tới một số cơ quan hữu quan của Việt Nam, UBND tỉnh Bắc Ninh - nơi có nhà máy sản xuất điện thoại Nokia, cho biết lãnh đạo tập đoàn Microsoft đã thông báo thay đổi chiến lược cho toàn bộ tập đoàn. Theo kế hoạch, Microsoft sẽ đóng cửa toàn bộ hoặc một phần các nhà máy sản xuất tại Komarom (Hungary), Bắc Kinh, Đông Quảng (Trung Quốc) và Reynosa (Mexico) và chuyển toàn bộ hoặc một phần dây chuyền sản xuất điện thoại di động thông minh Nokia từ đó về Việt Nam.
Trước đó, theo một công văn mà Công ty Nokia Việt Nam gửi đến các cơ quan chức năng của Việt Nam để báo cáo tình hình hoạt động từ khi được thành lập tại Việt Nam vào năm 2011 cũng như sự thay đổi chiến lược hoạt động tại Việt Nam sau khi Nokia được Microsoft mua lại, rằng Microsoft sẽ chuyển giao hầu hết các dây chuyền sản xuất điện thoại thông minh (smartphone) về Việt Nam. Việc chuyển giao này đã được tiến hành từ tháng 5 vừa qua và dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 2-2015.
Để Nokia Việt Nam đẩy nhanh tiến độ chuyển các nhà máy trên về Việt Nam, UBND tỉnh Bắc Ninh kiến nghị Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét, hỗ trợ và xác nhận đề nghị của Nokia Việt Nam trước ngày 1-9. Theo đó, Bộ KHCN ban hành Quyết định 2279/QĐ-BKHCN ngày 29/8/2014 ngưng hiệu lực thi hành Thông tư số 20/2014/TT-BKHCN hướng dẫn Khoản 10 Điều 9 Nghị định187/2013/NĐ-CP quy định việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng kể từ ngày 01/9/2014.
Thực tế là, bản thân các quy định ngành của Việt Nam, chẳng hạn như quy định về tiêu chuẩn môi trường, công suất, tiêu hao năng lượng… của các ngành sản xuất thép, giao thông vận tải, công thương… ban hành trong những năm trước, hiện vẫn đang áp dụng là khá tương thích với quy định của Thông tư 20/2014/TT-BKHCN, nếu không nói là có phần chặt chẽ hơn.
Nhưng thực tế máy móc thiết bị lạc hậu, cũ… vẫn bằng nhiều cách được nhập khẩu về Việt Nam, và được lắp đặt trong các nhà máy sản xuất, với giá trị đầu tư như mới. Lý do việc dừng thi hành Thông tư 20/2014/TT-BKHCN của Bộ Khoa học Công nghệ, do thế, dường như chủ yếu là để phục vụ cho một nhóm DN chuyên nhập khẩu máy móc cũ, và phục vụ trực tiếp cho việc nhập khẩu dây chuyền sản xuất đang hoạt động của những hãng công nghệ trên thế giới. Nhưng nếu chỉ vì mục đích phục vụ hoạt động đầu tư của các hãng, thì Chính phủ hoàn toàn có thể ban hành "giấy phép" nhập khẩu riêng cho từng hãng, vì số này không nhiều. Nhưng việc thỏa hiệp đối với các doanh nghiệp chuyên nhập khẩu máy móc thiết bị cũ, thì lại là một bước lùi đích thực trong quản lý. Nói quy định quản lý của Việt Nam luôn có khoảng hở rất lớn là vì lẽ ấy.

1.3.4. Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển
Ngành công nghiệp phụ trợ vẫn chưa phát triển, doanh nghiệp FDI không có động cơ để gắn kết với khu vực sản xuất trong nước, không có động cơ để chia sẻ tri thức và chuyển giao công nghệ cho đối tác trong nước. Vẫn còn tồn tại một thực trạng là có những doanh nghiệp FDI muốn tìm đối tác Việt Nam để tham gia vào chuỗi cung ứng của mình, nhưng các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa sẵn sàng đáp ứng được những tiêu chuẩn mà họ đưa ra, kết quả là doanh nghiệp Việt chỉ tham gia chủ yếu ở công đoạn gia công lắp ráp.
Đơn cử như trường hợp Samsung Việt Nam. Tại Việt Nam, năm 2013 Samsung đã xuất khẩu điện thoại di động với kim ngạch 23,9 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Việt Nam đã trở thành một cứ điểm sản xuất công nghệ cao của thế giới khi cứ 400 triệu điện thoại di động của Samsung được bán ra trên toàn cầu thì có 120 triệu điện thoại được sản xuất tại Bắc Ninh.
Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa cho các sản phẩm của Samsung lại rất khiêm tốn. Trong số hơn 90 nhà cung cấp sản phẩm phụ trợ cho Samsung thì chỉ có 6,7 doanh nghiệp trong nước, trong đó chủ yếu cung ứng in ấn và bao bì.
Theo ông Shim Won Hwan, Tổng Giám đốc tổ hợp Samsung nhận định, thực tế công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn tương đối lạc hậu. Ông cũng dẫn số liệu điều tra của JETRO (Nhật Bản) so sánh, số linh kiện, nguyên phụ liệu nội địa cung ứng cho sản phẩm công nghiệp của Trung Quốc và Thái Lan chiếm 50-60%, của Việt Nam chỉ chiếm 27,8% giá trị sản lượng công nghiệp. Do vậy giá trị gia tăng của sản phẩm Việt Nam vẫn chỉ khiêm tốn ở con số từ 15 đến 30%.
Để công nghệ và tri thức kinh doanh của các công ty đa quốc gia lan tỏa từ dự án FDI sang các khu vực khác của nền kinh tế, cần có chính sách thức đẩy sự liên kết hàng dọc giữa FDI với các công ty trong nước. Nghĩa là phải khuyến khích các dự án FDI tích cực dùng nguyên liệu và các sản phẩm phụ trợ sản xuất trong nước, qua đó các nhà đầu tư FDI sẽ chuyển giao công nghệ, truyền đạt tri thức, chỉ đạo quản lý để các công ty trong nước cung cấp hàng đủ chất lượng và với giá thành thích đáng.
Tuy nhiên, nếu đưa ra điều kiện đó mà môi trường cung cấp sản phẩm phụ trợ chưa phát triển thì các nhà đầu tư FDI sẽ chọn nước khác để đầu tư. Do đó, để đồng thời vừa thu hút FDI vừa tăng hiệu quả lan tỏa của FDI đến các khu vực khác của nền kinh tế, chính phủ các nước nhận FDI phải có chính sách phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nâng đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc tiếp cận vốn và thông tin thị trường, trong việc giảm phí tổn về hành chánh,…
2. Thành công
Kể từ khi có Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu lực năm 1988, dòng vốn FDI luôn là động lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 26 năm qua. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) luôn phát triển năng động. Trong 25 năm từ 1988-2013, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt khoảng 218,8 tỷ USD, tổng vốn thực hiện đạt 106,3 tỷ USD, lĩnh vực công nghiệp chiếm tới gần 60%. Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 10 tháng đầu năm 2014, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 13,7 tỷ USD, bằng 71,2% so với cùng kỳ 2013. Như vậy, tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có chiều hướng giảm nhẹ so với thời điểm Việt Nam đạt kỷ lục về thu hút đầu tư nước ngoài (vượt mốc 20 tỷ USD).
Về tiến độ giải ngân, FDI giai đoạn 2000-2005 có giá trị đăng ký thấp, nhưng tỷ trọng giải ngân khá cao (69%) trong khi đó giai đoạn 2006-2008 cơ mức đăng ký cao, giá trị giải ngân tuyệt đối cũng cao nhưng tỷ trọng giải ngân so với đăng ký lại rất thấp (25%). Điều này là do giai đoạn 2000-2005, Việt Nam đang tích cực thực hiện chính sách thu hút FDI, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, nên giai đoạn này, FDI chủ yếu tập trung vào các ngành thương nghiệp, công nghiệp nhẹ. Đây là những ngành có thể giải ngân nhanh. Thời kỳ 2006-2008, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, lượng vốn đăng ký rất cao, tuy nhiên lại tập trung nhiều vào các ngành công nghiệp như xi măng, sắt thép, khiến thời gian triển khai dự án dài, giải ngân chậm. Từ 2008 đến nay, vì nhiều nguyên nhân bên trong như vấn đề đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng.. và nguyên nhân bên ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, thay đổi trong danh mục đầu tư v.v nên mặc dù vốn cam kết cao nhưng tốc độ giải ngân lại thấp.
Theo thống kê của Bộ KH&ĐT, tổng số các Hợp đồng chuyển giao công nghệ đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận hoặc phê duyệt từ năm 1999 đến tháng 6/2012 trên toàn quốc là 838 hợp đồng. Trong đó, số hợp đồng chuyển giao công nghệ thuộc các dự án FDI chiếm trên 50%. Nội dung các hợp đồng chuyển giao công nghệ thường tập trung vào việc chuyển giao quy trình công nghệ 82%; bí quyết công nghệ 80%; trợ giúp kỹ thuật 87%; đào tạo 78%; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp 21%... (trong đó, có những hợp đồng chuyển giao đồng thời nhiều đối tượng công nghệ nêu trên). Ngoài ra, số liệu thống kê hợp đồng chuyển giao công nghệ các năm còn cho thấy, đa số hợp đồng chuyển giao công nghệ thuộc dự án FDI. Một số ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ là dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất.
Những tập đoàn lớn như Sanyo, Matsushita, Sony, Fujitsu, Toshiba, Panasonic, Nidec… đã xây dựng nhà máy sản xuất với công nghệ hiện đại và giờ đây tiếp tục rót thêm vốn để mở rộng đầu tư với quy mô lớn hơn. Song song đó, dòng vốn FDI đến từ Hoa Kỳ và các nước châu Âu cũng liên tục chọn Việt Nam là “bến đỗ”. Tập đoàn công nghệ như Intel, IBM (Hoa Kỳ), Cap Gemini và Accenture (Pháp) đã có dự án sản xuất quy mô hoặc đang tìm cơ hội đầu tư các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Việt Nam. Tại các khu công nghệ cao (CNC), vốn FDI đổ vào ngày một lớn.
Theo Ban quản lý Khu công nghệ cao TP. Hồ Chí Minh (SHTP), trong năm 2012, SHTP đã tiếp xúc 63 nhà đầu tư, đối tác từ các quốc gia trong khu vực và thế giới đến tìm hiểu thông tin và cơ hội đầu tư, hợp tác ở các lĩnh vực chủ yếu: vi điện tử, công nghệ thông tin và năng lượng tái tạo. Trong đó, số lượng nhà đầu tư từ châu Âu chiếm 25%. Cả năm 2012 đã cấp phép mới mười dự án (lĩnh vực công nghệ thông tin, dịch vụ công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển) với tổng vốn đầu tư 111,2 triệu USD. Lũy kế đến nay có 68 dự án được cấp phép tại SHTP, trong đó 58 dự án còn hiệu lực (có hai dự án sáp nhập và tám dự án rút giấy phép) với tổng vốn đầu tư đạt 2,141 tỷ USD (vốn trong nước là 410,7 triệu USD và vốn FDI là hơn 1,73 tỷ USD). Khu công viên phần mềm Quang Trung (TP.HCM) và Khu công nghệ cao Hòa Lạc cũng liên tục là điểm đến của dòng vốn FDI trong thời gian qua.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Văn Lạng khẳng định thông qua FDI Việt Nam đã có nhiều công nghệ mới, tiên tiến, sản xuất ra các sản phẩm mà trước đây chưa từng có. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài thông qua FDI đã hạn chế đến mức tối đa nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng mới, hàng điện tử gia dụng, phương tiện giao thông,… DN FDI tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao với hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài… Có doanh nghiệp FDI đã tổ chức sản xuất sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao và xuất khẩu gần 100% sản phẩm ra thị trường nước ngoài ở các lĩnh vực điện tử, quang cơ - điện tử như Công ty TNHH Nidec Tosok, Muto, Nissei… Có DN đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu - phát triển như Công ty TNHH Renesas Việt Nam với mục tiêu nghiên cứu, phát triển và thiết kế các phần cứng (vi mạch) và các phần mềm chức năng cho IC bán dẫn (mạch tích hợp),…

Năng lực sản xuất bước đầu được nâng cao qua FDI:
Theo đánh giá của Bộ Khoa học và Công nghệ, thời gian qua FDI đã góp phần thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, từng bước nâng cao năng lực sản xuất của một số ngành trong nước. Thông qua FDI, trình độ công nghệ sản xuất trong nước đã được nâng cao một cách rõ rệt so với thời kỳ trước đây. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến với trình độ hiện đại của thế giới như: bưu chính - viễn thông, dầu khí, xây dựng, cầu đường… Đồng thời, nhiều doanh nghiệp trong nước đã đổi mới hoặc nâng cấp các trang thiết bị đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền kinh tế. Cũng từ việc thu hút được nhiều công nghệ mới, tiên tiến mà Việt Nam đã sản xuất ra được nhiều sản phẩm mới mà trước đây trong nước chưa có. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài thông qua FDI đã hạn chế đến mức tối đa việc nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thuộc các lĩnh vực: dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng mới, hàng điện tử gia dụng, phương tiện giao thông… Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, với hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài như các sản phẩm điện tử, cơ khí, chế tạo… Nhiều doanh nghiệp FDI đã tổ chức sản xuất các sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ cao, xuất khẩu gần 100% sản phẩm ra thị trường nước ngoài thuộc các lĩnh vực điện tử, quang cơ - điện tử, như Công ty TNHH Nidec Tosok, Muto, Nissei… Có doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu - phát triển như Công ty TNHH Renesas Việt Nam với mục tiêu nghiên cứu, phát triển và thiết kế các phần cứng (vi mạch) và các phần mềm chức năng cho IC bán dẫn (mạch tích hợp)…
Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trong nước, do sức ép của thị trường cạnh tranh ngày càng cao được tạo ra bởi các sản phẩm của các doanh nghiệp FDI nên đã cố gắng đổi mới công nghệ bằng việc nhập các thiết bị và công nghệ mới. Qua đó, cũng đã sản xuất được các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, không thua kém hàng nhập khẩu với một giá cả hợp lý, được người tiêu dùng ưa chuộng như các sản phẩm may mặc, giầy da, thực phẩm...
Những thành tựu đạt được nêu trên đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với thu hút FDI, cũng như chính sách khuyến khích, thu hút công nghệ của nước ngoài để đổi mới công nghệ, góp phần nâng cao năng lực công nghệ quốc gia.
3. Những tồn tại
Sau 25 năm mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục tiêu thu hút công nghệ, chuyển giao công nghệ từ FDI vào khu vực kinh tế trong nước đã đạt được một số kết quả, song chưa được như mục tiêu đề ra. Các chuyên gia cho rằng, để tăng cường chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI vào nền kinh tế, cần phải sửa các quy định liên quan, đẩy mạnh chính sách ưu đãi các dự án công nghệ cao đủ hấp dẫn, đồng thời, chuẩn bị nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận và làm chủ công nghệ mới.

Những năm qua, các dự án FDI trở thành một trong những kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Theo thống kê, từ năm 1993 đến nay, cả nước có 605 hợp đồng chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI đã được phê duyệt, đăng ký, chiếm 63,6% tổng số các hợp đồng chuyển giao công nghệ của quốc gia.
Nội dung các hợp đồng chuyển giao công nghệ thường tập trung vào việc chuyển giao quy trình công nghệ; bí quyết công nghệ; trợ giúp kỹ thuật; đào tạo; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp... So với con số hơn 14.000 dự án FDI đầu tư vào Việt Nam trong 25 năm qua thì số hợp đồng chuyển giao công nghệ được thực hiện còn quá ít ỏi.
Hiện nay có trên 80% doanh nghiệp FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 5- 6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp sử dụng công nghệ lạc hậu. Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều ngang – giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình độ và năng lực công nghệ. Đành rằng, sẽ chẳng có tập đoàn, doanh nghiệp nào họ mang công nghệ số 1, công nghệ mới nhất sang nước khác đầu tư, tuy nhiên, đa số các dự án FDI ở Việt Nam chỉ có công nghệ trung bình cho thấy, các doanh nghiệp FDI chủ yếu tận dụng lợi thế lao động giá rẻ, đầu tư cơ sở sản xuất dưới dạng dây chuyền lắp ráp, hoặc hoàn thiện sản phẩm. Hệ quả là doanh nghiệp Việt Nam tạo ra gia trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.
Thời gian qua có không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp, yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển giao công nghệ. Mặt khác, thực tế có rất ít dự án FDI được đầu tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Hoạt động R&D ở các doanh nghiệp FDI mới chỉ ở những công nghệ nhỏ, đơn giản... hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bởi thế, việc khai thác, học hỏi công nghệ thông qua FDI những năm qua chưa thiết thực, hiệu quả.

Tuy hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI đã có đóng góp tích cực đối với đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế.
Hoạt động chuyển giao công nghệ vẫn còn có một số tồn tại cần sớm khắc phục như: Định hướng thu hút công nghệ cao, công nghệ khuyến khích đầu tư chưa đạt mục tiêu đặt ra; mặc dù công nghệ đưa vào qua kênh này hầu hết có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở Việt Nam một chút, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực. Những công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI thường là công nghệ được đưa vào theo lợi ích của nhà đầu tư, mà thường không phải theo nhu cầu đổi mới công nghệ do phía Việt Nam chủ động đưa ra. Bên cạnh đó, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp vẫn còn nặng về thành tích lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chưa chú trọng vào việc thu hút các dự án có công nghệ cao, công nghệ mới trong nông, lâm, ngư nghiệp, khai thác tài nguyên khoáng sản...

Mặt khác, công tác thẩm định công nghệ chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi nhà đầu tư thường chú trọng, quan tâm hàng đầu đến lợi ích đầu tư, đầu tư để sinh lợi, thì quy định pháp luật lại cho phép nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về nội dung công nghệ. Thực tế, qua thẩm định các dự án FDI cho thấy, nội dung giải trình công nghệ thường rất sơ sài, trong khi đó, công nghệ lại có đặc điểm quan trọng là hàng hóa vô hình. Để lựa chọn công nghệ phù hợp với mục tiêu của dự án, thường phải đưa ra các phương án công nghệ để so sánh, lựa chọn phương án tối ưu, xem xét quy trình công nghệ, trình độ công nghệ, nguồn gốc xuất xứ máy móc, thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất… Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, hồ sơ dự án đầu tư ngày càng đơn giản, nên cơ quan thẩm định công nghệ không có đủ cơ sở để xem xét, đánh giá. Mặt khác, khi phân cấp đầu tư, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đầu tư tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lại không gửi hồ sơ dự án hỏi ý kiến các Sở Khoa học và Công nghệ theo quy định. Do đó, trong trường hợp nhà đầu tư đưa vào máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên liệu, gây ô nhiễm môi trường… thì không có cơ chế để ngăn chặn ngay từ đầu, mà phải đợi đến khi hậu kiểm thì không có cơ quan nào chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả.

Hơn nữa, năng lực thẩm định của các Sở Khoa học và Công nghệ còn hạn chế. Việc tiếp nhận, học hỏi công nghệ thông qua FDI còn nhiều yếu kém. Đối với các dự án FDI, việc nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ cho người lao động là rất quan trọng để có thể từng bước tiếp nhận, vận hành và làm chủ công nghệ. Tuy nhiên, với các liên doanh, Việt Nam lại chưa chú trọng việc tuyển chọn, đãi ngộ cán bộ, công nhân kỹ thuật trẻ có năng lực để bố trí vào các công đoạn sản xuất quan trọng. Việc đào tạo kỹ thuật vẫn còn nặng về lý thuyết, ít thực hành nên khi được tuyển dụng vào làm việc thường phải đào tạo bổ sung. Với những doanh nghiệp đòi hỏi lao động kỹ thuật với số lượng lớn thì lại không tuyển dụng được lao động đáp ứng đủ số lượng và chất lượng.

Mới có số lượng rất ít dự án FDI được đầu tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Hoạt động R&D ở các doanh nghiệp FDI mới chỉ ở những công nghệ nhỏ, đơn giản hoặc nghiên cứu để cải tiến thích nghi phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhìn chung, việc khai thác, học hỏi công nghệ thông qua FDI chưa đạt được kết quả như mong muốn.
4. Các yếu tố tác động
IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CGCN QUỐC TẾ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ FDI
1. Giải pháp từ phía Nhà nước
Trong mục tiêu nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI tại Việt Nam thì Nhà nước đồng thời đảm nhiệm vai trò 5 “nhà”: (1) Nhà đi đầu đưa ra các quy phạm và chính sách; (2) Nhà môi giới trung gian; (3) Nhà ủng hộ đầu tư vốn trong việc chuyển hóa các thành quả khoa học công nghệ; (4) Nhà điều tiết quan hệ lợi ích giữa các bên; (5) Nhà bảo hộ hợp pháp lợi ích các bên. Giải pháp cụ thể đối với Nhà nước như sau:
1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách nhằm thu hút FDI và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đem lại cho chúng ta những công nghệ hiện đại, đem lại sự thay đổi cho nền kinh tế đất nước. Do đó chúng ta cần tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dự án đầu tư kèm theo chuyển giao công nghê. Bên cạnh đó cần chú trọng vào một số ngành, lĩnh vực đang rất cần thu hút đầu tư để phát triển một cách toàn diện. Chẳng hạn, ngành công nghiệp điện tử cần tích cực thu hút đầu tư của các tập đoàn có công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp điện tử Việt Nam và thực hiện chiến lược phát triển “ theo định hướng mạng”, Ngành công nghiệp sản xuất ô tô cần thu hút đầu tư nước ngoài vào việc cung ứng phụ tùng trong nước nhằm giảm chi phí sản xuất và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Ngành dệt may giày dép cần thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu và thiết kế để tạo ra những sản phầm có mẫu mã đa dạng phong phú, chi phí thấp nhất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Để làm được điều này, chính phủ VN cần tập cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư theo một số hướng sau:
Áp dụng các công cụ chính sách tài chính ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào khoa học công nghệ, đặc biệt là các công nghệ được ưu tiên.
Mở rộng phạm vi liên kết quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với qui định của WTO và các Điều ước quốc tế đã ký kết. Cải cách một số qui định về chuyển giao công nghệ như thời gian chuyển giao, giá trị công nghệ đem góp vốn…
Đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá và cắt giảm một số chi phí sản xuất nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm thúc đẩy triển khai dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động kinh doanh hiệu quả, qua đó nâng cao uy tín của môi trường đầu tư ở nước ta.
Thực hiện vận động xúc tiến đầu tư tại các địa bàn có trọng điểm trong đó có Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đài Loan,... dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các đoàn đi vận động đầu tư, tổ chức gặp và làm việc với các tập đoàn lớn đã có dự án đầu tư hoặc văn phòng đại điện tại VN, tăng cường thông tin về đầu tư nước ngoài qua Internet và các phương tiện thông tin đại chúng, nhanh chong tăng cường đại diện xủa VN ở nước ngoài về xúc tiến đầu tư kết hợp  với các cơ quan ngoại giao để tăng cường vận động đầu tư. Kiến nghị Chính phủ hàng năm trích 1% khoản thu ngân sách từ các doanh nghiệp có vốn FDI để trang trải kinh phí vận động xúc tiến đầu tư.

1.2. Phát triển toàn diện nhân tố con người
Trong hơn một thập kỷ qua, thay đổi công nghệ đã gây ra tình trạng giảm cầu đối với lao động rẻ tay nghề thấp. Như vậy Việt Nam đang mất dần đi lợi thế cạnh tranh về lao động giá rẻ của mình nếu chúng ta không có chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao trình độ độ ngũ cán bộ khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng lực tiếp nhận công nghệ được chuyển giao.  
Chúng ta nên tập trung vào những vấn đề sau:
-                Đẩy mạnh việc tuyển chọn và gửi học sinh, sinh viên, cán bộ KH&CN đi đào tạo một cách đồng bộ ở các nước có trình độ KH&CN tiên tiến, trước mắt trong một số lĩnh vực KH&CN trọng điểm quốc gia. Phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với cơ quan sử dụng cán bộ KH&CN.
-                Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, các nhà bác học, các tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề, hình thành các tập thể KH&CN mạnh, đủ sức giải quyết những nhiệm vụ KH&CN quan trọng.
-                Điều chỉnh cơ cấu đào tạo công nhân kỹ thuật (đặc biệt công nhân có tay nghề cao) cho các ngành đang thu hút đầu tư nước ngoài. Nâng cao nội dung về mặt thực tiễn trong các chương trình giáo dục và đào tạo cũng như trong giáo trình.
-                Dành các biện pháp khuyến khích và đối xử đặc biệt đối với các công ty nước ngoài hiện đang làm việc và tham gia vào đào tạo trình độ cao, chuyển giao công nghệ và hoạt động nghiên cứu triển khai ở Việt Nam.
-                Tăng cường nguồn vốn tài trợ cho hoạt động R&D để ứng dụng trong sản xuất. Hình thành các mối liên hệ giữa các trường đại học, các viện R&D trong nước với các đối tác được lựa chọn ở nước ngoài.
1.3. Cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Như chúng ta đã biết cơ sở hạ tầng kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành có công nghệ cao.
Muốn tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao chúng ta cần tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế bao gồm viễn thông, điện, cảng biển và cảng hàng không; hạ tầng thương mại gồm kho hàng, chợ đầu mối ở nơi giao nhau của các tỉnh. Xây dựng các khu công nghệ cao, khu công nghiệp để di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm trong thành phố, thị trấn, thị xã; xây dựng khu công nghiệp nhỏ cho làng nghề và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tập trung xây dựng hạ tầng phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Mở rộng các hình thức thu hút vốn của nhân dân như xây dựng vận hành chuyển giao (BOT), xây dựng chuyển giao (BT); liên doanh, phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khóa trong nước và quốc tế.
1.4. Rà soát và đánh giá:
Thường xuyên rà soát và đánh giá việc thực hiện các chính sách liên quan đến chuyển giao công nghệ để rút ra bài học, nhanh chóng khắc phục và có giải pháp cải tiến.
2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động trong việc lựa chọn những công nghệ thích hợp vừa mang lại hiệu quả cao, vừa phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước
Như trên đã phân tích, công tác lựa chọn công nghệ thích hợp của Việt Nam hiện nay còn kém. Các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ do sức ép của thị trường chứ không phải do chủ động theo kế hoạch. Hơn nữa, những công nghệ chuyển giao phần lớn là do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải tự các doanh nghiệp của ta tìm kiếm hoặc tự nghiên cứu, thiết kế.
Do đó, để lựa chọn được công nghệ thích hợp, chúng ta cần nắm được thông tin. Từ đó trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp, chúng ta chủ động tìm bên cung cấp công nghệ. Các lĩnh vực thông tin liên quan đến bên cung cấp công nghệ và bên công nhận công nghệ thường là lịch sử và kinh nghiệm, địa vị hiện tại, chiến lược và kế hoạch của  doanh nghiệp.
Khi tìm kiếm công nghệ chúng ta có thể dựa cào các cách như con đường phi chúng thức, con đường qua các hội chợ thương mại, con đường thông qua các ấn phẩm và các nhà tư vấn, con đường thông qua dịch vụ thông tin của Chính phủ và con đường thông qua đấu thầu.
Hội chợ thương mại là cơ hội tuyệt vời để tiếp xúc với các đối tác cung cấp công nghệ. Các công ty tham gia hội chợ có mong muốn bán được hàng, các công nghệ mới nhất được trưng bày; trong một lĩnh vực thay đổi nhanh chóng như tự động hóa văn phòng, những thay đổi từ năm này đến năm sau một cách nhanh chóng làm cho các ý tưởng trở nên lỗi thời.
2.2. Khuyến khích sáng tạo, cải tiến kỹ thuật trong quá trình sử dụng công nghệ.
Các công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam đều là công nghệ hiện đại hơn so với các công nghệ hiện có tại Việt Nam. Tuy nhiên khi được phát minh và triển khai ở nước bản quốc thì họ lại tính đến những yếu tố như thu nhập, sở thích, điều kiện cơ sở hạ tầng, thời tiết khí hậu… của chính nước đó. Do đó khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam thì mỗi doanh nghiệp FDI đều nên tính đến các điều kiện đặc thù của Việt Nam để cải tiến cho phù hợp. Ví dụ như thu nhập của đa số người dân Việt Nam đều thấp thì các doanh nghiệp sản xuất xe máy nên thiết kế ra các sản phẩm giá rẻ mà vẫn đảm bảo chất lượng (như trường hợp xe máy Wave); đường xá Việt Nam gồ ghề thì nên cải tiến sao cho giảm độ ồn, rung của động cơ… Có như vậy thì mới vừa tạo ra uy tín cho doanh nghiệp, vừa tăng sức tiêu thụ của sản phẩm.
Khi chuyển giao công nghệ vào Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài không nên chỉ dừng lại ở việc sử dụng công nghệ mà còn nên phát triển công nghệ thêm những tầm cao mới. Như chúng ta đã biết tri thức khoa học không chỉ có mặt ở nước phát minh công nghệ mà còn cả ở nước tiếp nhận công nghệ. Hơn nữa con người Việt Nam vốn rất thông minh, dễ tiếp thu cái mới và khả năng tư duy sáng tạo cao. Do vậy các doanh nghiệp FDI cũng nên tận dụng đội ngũ trí thức sẵn có này để sáng tạo ra sản phẩm mới, phương thức sản xuất mới nhằm tiết kiệm nguyên liệu, nâng cao năng suất lao động đem lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp. Muốn vậy mỗi doanh nghiệp FDI nên nghĩ đến việc đặt thêm một cơ sở nghiên cứu và phát triển sản phẩm để khai thác chất xám của lực lượng lao động trong nước, tạo ra công nghệ để bán ra nước ngoài.
2.3. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ lao động

Đội ngũ lao động của VN có ưu điểm là giá rẻ, nhưng trình độ và tay nghề lại thaasps. Đôi ngũ lao động làm công tác quản lý có trình độ văn hóa cao nhưng không được rèn luyện nhiều trong môi trường kinh doanh nên khả năng làm việc còn kém. Đội ngũ lao động trực tiếp tham gia sản xuất nhiều khi chưa được qua trường lớp đào tạo, hoặc có qua đào tạo thì chất lượng cũng không đảm bảo. Hơn nữa, tính chất công việc, trình độ công nghệ máy móc thiết bị của từng công ty cũng khác nhau. Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty, nâng cao khả năng sử dụng công nghệ và bảo dưỡng máy móc thiết bị thì mỗi doanh nghiệp FDI đều nên tiến hành đào tạo đội ngũ lao động. Việc đào tạo có thể được thực hiện theo nhiều hình thức, như gửi người đi đào tạo tại cơ sở nước ngoài, đào tạo tại chỗ, đào tạo trong quá trình làm việc, qua trao đổi với chuyên gia nước  ngoài...Việc đào tạo có thể là một phần của hợp đồng chuyển giao công nghệ, nhưng cũng có thể chỉ là hoạt động cần làm vì  lợi ích doanh nghiệp.

aaaaaaaaaaaa

Trang Tài Liệu Tổng Hợp Online
Thời gian: 2015-04-09T20:59:00-07:00
Bài viết:Luận văn chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
Xếp hạng: 5 trên 22 đánh giá

About Unknown

Xin chào! Tôi là Mua Lê sinh ra và lớn lên tại thành phố bảo lộc - lâm đồng
«
Next
Newer Post
»
Previous
Older Post

1 comments:

  1. Hello Everyone,

    Below are the most recommended Bitcoin exchanges (BUY/SELL):
    Coinbase: $1 min. transaction
    CoinMama

    Earn free Bitcoins with the best Bitcoin faucet rotator:
    Bitcoin Faucet Rotator

    ReplyDelete